Khả năng đọc nghĩ suy và khuân mặt BỊ phanh phui

hồ hết những hiểu biết của chúng ta về khả năng đọc suy nghĩ đều nhờ vào hai nhà khoa học xuất sắc là Silvan Tomkins và Paul Ekman.

Tomkins giảng dạy môn tâm lý học ở trường Princeton và Rutgers. Trên đường đua ngựa, nơi ông ngồi hàng giờ liền trên khán đài nhìn chăm chắm vào những con ngựa qua chiếc ống nhòm, Tomkins được mệnh danh là “giáo sư”. Ông có phương pháp đoán xem con ngựa sẽ làm gì, dựa vào hai con ngựa đang chạy ở đường đua bên cạnh và mối quan hệ tình cảm giữa chúng. chả hạn nếu một con ngựa đực đã từng “mê đắm” một con ngựa cái trong một hoặc hai năm đầu sự nghiệp trên đường đua của mình thì nó sẽ suy sụp nếu được xếp đặt đi đến cổng trường đua cạnh con ngựa cái. Tomkins tin rằng khuôn mặt – thậm chí ngay cả khuôn mặt của những con ngựacũng ẩn chứa các dấu hiệu có giá trị về những tình cảm và những động cơ bên trong.

>>>> Xem thêm về tin tức tại Quy Nhơn


Tomkins chỉ nhìn vào những bức ảnh chân dung tù đọng, ông có thể cho mọi người biết những người nhập cư khác nhau thường mắc phải tội gì. Ông thường xem buổi diễn To tell the truth và kiên cố lúc nào ông cũng có thể chỉ ra người nào đang nói láo.

Paul Ekman gặp Tomkins vào đầu những năm 1960. Lúc đó Ekman là một chuyên gia tâm lý trẻ chỉ vừa tốt nghiệp đại học và rất quan hoài tới việc nghiên cứu nét mặt. Ekman băn khoăn không biết liệu có hạy không một hệ thống quy luật chung chi phối những biểu thị qua nét mặt của con người. Tomkins đáp là có, nhưng hồ hết các chuyên gia tâm lý khác lại nói rằng không. Vào thời khắc đó, những hiểu biết thường ngày về sự biểu đạt đó chỉ được xác định theo phương diện văn hóa – có tức thị chúng ta chỉ đơn thuần dùng khuôn mặt của mình tùy theo những quy định tầng lớp đã được dạy bảo. Ekman không biết quan điểm nào là đúng và ý kiến nà sai. Vì vậy, để tìm cho được câu giải đáp, Ekman đã đi tới Nhật Bản, Brazil và Argentina. Thậm chí ông còn tới thăm những bộ lạc sống riêng biệt ở các khu rừng rậm của vùng Viễn Đông – mang theo các bức ảnh chụp những người đàn ông và phụ nữ với những kiểu nét mặt khác nhau. Trước sự sửng sốt của Ekman, ở ắt những nơi ông đi qua, mọi người đều đồng ý và hợp nhất về ý nghĩa trình bày ở mỗi khuôn mặt. Ekman nhận ra Tomkins đã đúng.

Không lâu sau đó, Tomkins đã đến gặp Ekman ở phòng thể nghiệm của Ekman ở San Francisco. Trước đó, Ekman đã theo dõi hàng trăm nghìn thước phim do chuyên gia về vi rút và vi khuẩn học Carleton Gajdusek thực hiện ở những khu rừng rậm cách biệt với thế giới bên ngoài của vùng Papua New Guinea. Trong bộ phim này, có một số cảnh nói về bộ lạc South Fore, những người dân của bộ lạc này rất thân thiện và yêu hòa bình. Phần còn lại là những thước phim về bộ lạc Kukukuku. Đây là bộ lạc tàn ác, luôn có tư tưởng thù địch và có nghi tiết quan hệ đồng tính luyến ái. Theo nghi tiết này, những bé trai ép phải hầu những người đàn ông lớn tuổi hơn trong bộ lạc như một “gái điếm”. Trong sáu tháng, Ekman và cộng sự của ông đã sắp đặt, phân loại các cảnh phim, cắt bỏ những cảnh không liên quan, chỉ giao hội vào những cảnh quay cận nét mặt của những người đàn ông trong bộ lạc để so sánh tiếng nói trình bày trên nét mặt của hai nhóm người này.

Khi Ekman bắt đầu bật máy chiếu, Tomkins đợi ở phía sau. Ông không được cung cấp bất cứ thông tin nào can dự đến các bộ lạc được chiếu trong phim: bít tất bối cảnh dùng để nhận dạng đã được lược bỏ hết. Tomkins xem chuyên chú tất thảy các cảnh quay qua cặp kính của mình. Khi bộ phim chấm dứt, ông lại gần màn hình, chỉ vào khuôn mặt của các thành viên trong bộ lạc South Fore và nói :”Đây là những người hòa nhã và dịu dàng, họ rất bao dung và rất yêu hòa bình.” Còn khi chỉ vào khuôn mặt của những người thuộc bộ lạc Kukukuku, Tomkins nhận xét: “Những người này lại rất bạo lực , và có nhiều dấu hiệu cho thấy có sự xuất hiện hiện tượng đồng tính luyến ái ở bộ lạc này.”

Ngay cả đến bây giờ, sau một phần ba thế kỷ, Ekman vẫn chẳng thể không thừa nhận về những gì mà Tomkins đã làm. Ông nhớ lại: “Lạy chúa! Thầy Silvan, làm sao mà thầy có thể làm được điều đó? Lúc ấy, thầy Silvan đi lên phía trên gần màn hình, và khi chúng tôi chiếu lại bộ phim với hình ảnh chạy chậm lại, ông đã chỉ cho chúng tôi thấy những chỗ phình ra và những nếp nhăn đặc biệt trên những khuôn mặt mà ông đã đưa ra lời nhận xét. Đó cũng chính là lúc tôi nhận ra ‘Tôi đã vạch trần gương mặt của họ’. Đó là một mỏ thông tin bằng vàng mà tất mọi người đều không để ý đến. Nếu Tomkins có thể nhìn thấy được thì có lẽ những người khác cũng có khả năng tương tự.

Và ngay tại phòng thể nghiệm vào thời khắc đó, Ekman và Tomkins đã quyết định xây dựng một nguyên tắc phân loại các tiếng nói biểu thị của nét mặt. Họ nghiên cứu các giáo trình y khoa có vẽ phác thảo những đường cơ trên khuôn mặt, và họ xác định từng chuyển động cơ biệt lập mà khuôn mặt có thể tạo ra. Có tất tật 43 chuyển động như vậy xuất hiện trên khuôn mặt con người. Ekman và Friesen gọi chúng là các hoạt động. Rồi sau đó, hai người ngồi đối diện với nhau nhiều ngày liền, và bắt đầu tuần tự thực hiện khéo léo# mỗi đơn vị hoạt động. đầu tiên, họ nhớ lại vị trí của cơ đó rồi sau tập trung vào việc tách biệt nó, quan sát lẫn nhau ở khoảng cách rất gần khi tiến hành, soát các chuyển động của cơ trên khuôn mặt mình trong gương, tiếp đó là ghi chép lại sự thay đổi của các phần nếp nhăn trên khuôn mặt ứng với chuyển động cơ, và chung cuộc là quay chuyển động cơ đó vào băng video làm tư liệu cho vắng của họ sau này. Có một vài lần khi không thể thực hiện được một chuyển động nào đó, Ekman và Friesen phải sang khu giải phẫu UCSF ở sát cạnh phòng thí điểm. Tại đây, một bác sỹ giải phẫu mà họ quen biết sẽ gắn một cây kim vào họ và kích điện phần cơ ngang bướng đó.

Khi thực hiện xong tất cả các hoạt động này, Ekman và Friesen bắt đầu kết hợp chúng lại với nhau, sắp lớp chuyển động này lên trên chuyển động kia. tất tật quá trình này mất đến 7 năm. EKman cho biết: “Cứ hai phần cơ lại có 300 kiểu kết hợp khác nhau. Nếu bạn them vào một phần cơ thứ ba, bạn sẽ có được trên 4000 cách kết hợp. Chúng tôi chỉ nghiên cứu vào năm phần cơ và số lượng nét mặt có thể nhìn thấy được lên tới hơn 10.000.” hẳn nhiên, phần nhiều trong số 10.000 cách biểu thị nét mặt trên không mang bất kì một ý nghĩa nào cả. Chúng chỉ là một kiểu nét mặt không mang ý nghĩa vẫn thường xuất hiện ở những đứa trẻ. Nhưng cho đến khi ghi vào mục lục những tiếng nói biểu hiện tình cảm cấp thiết trên nét mặt của con người, Ekman và Friesen đã xác định được khoảng 3000 kiểu phối hợp tuồng như mang một ý nghĩa nào đó, nhờ tiến hành kỹ cả thảy các kiểu kết hợp của các hoạt động này.

Khi tôi gặp Ekman, ông đang ngòi trong văn phòng và bắt đầu xem lướt qua các hình thể hoạt động mà ông đã nghiên cứu nhiều năm trước đó. “ắt mọi người đều có thể thực hành được hoạt động số bốn.” Ekman mở màn câu chuyện. Vừa nói, ông vừa nhíu mày, sử dụng cơ hạ giữa hai đầu long mày, cơ hạ của lông mày và nếp nhăn. “Và phần đa có thể thực hiện được đơn vị hoạt động số 9.” Nói rồi, Ekman nhăn mũi lại. Để thực hiện được đơn vị hoạt động này, ông phải dùng cơ nâng môi trên và cơ mũi. “Mọi người cũng có thể thực hành được đơn vị hoạt động số 5.” Ekman thu cơ nâng mí mắt trên lại và nâng mí mắt đó lên.

Khi EKman nói và biểu diễn, tôi ráng làm theo ông, và ông ngồi đó quan sát tôi. “Anh thực hiện đơn vị hoạt động số 5 rất tốt.” Ekman hào phóng nói “Nếu mắt anh càng sâu thì anh sẽ càng khó thực hiện được hoạt động này. Rồi, đây là đơn vị số 7.” Ekman nheo mắt lại. “Số 12.” Ekman thoáng mỉm cười, kích hoạt hoạt động của phần nhiều xương gò má. Các phần phía bên trong chân mày của Ekman căng ra. “Vừa rồi là đơn vị hoạt động số 1 – nó biểu thị sự đau đớn, thống khổ.” Rồi sau đó, Ekman dùng trán, đặc biệt là các cơ nâng ở hai bên để nâng nửa lông mày phía ngoài. “Còn đây là đơn vị hoạt động số 2. mặc dầu cũng rất khó thực hành, nhưng đơn vị này lại không mang một ý nghĩa nào cả và chỉ được dùng trong nhà hát Kabuki. 23 là đơn vị hoạt động mà tôi thích nhất. Hoạt động này được thực hành dựa trên sự thu hẹp viền của môi. Nó là một dấu hiệu rất đáng tin tức, cho thấy người nào đó đang giận dữ. Và nếu tự ý làm thì rất khó thực hiện được động tác này.” Ekman mím môi lại “Cử động từng tai một là một trong những đơn vị hoạt động khó nhất. Những lúc thực hiện động tác này, tôi phải thực sự hội tụ, và phải sử dụng toàn bộ các cơ trên khuôn mặt. Anh nhìn này!” Ekman ngọ nguậy tai trái rồi đến tai phải. chừng như ở Ekman không có một nét mặt tả riêng nào. Ông có cách ứng xử của một chuyên gia phân tách tâm lý: thận trọng, bình thản và khả năng biến đổi nét mặt dễ dàng và nhanh chóng thì thật đáng kinh ngạc.

Sau đó, Ekman bắt đầu thực hành hàng loạt các đơn vị hoạt động cùng nhau, để tạo ra những nét mặt phức tạp hơn mà chúng ta vẫn thường gọi là các cảm xúc. Chẳng hạn như về bản chất, sự sung sướng, hạnh phúc chính là sự lồng ghép đơn vị hoạt động số 6 và số 12 – kết hợp co các cơ nâng má (gồm có cơ vòng của mắt, vùng hốc mắt) và phần chính của xương gò má, phần này sẽ nâng khóe môi lên. Còn sự sợ hãi là phối hợp của đơn vị hoạt động số 1, 2, và số 4, hoặc chuẩn xác hơn là phải them cả đơn vị hoạt động 5 và 20, có thể có hoặc không có đơn vị số 25, 26 hoặc 27. Tức là: nâng phần trong của chân mày lên (sử dụng cơ vùng trước giữa trán), kết hợp với nâng phần ngoài chân mày lên (sử dụng cơ vùng trước, hai bên trán), song song dùng cơ hạ của chân mày làm nhíu mày xuống (động tác này sẽ giúp nâng mí mắt lên), rồi bạnh và tách hai môi ra (sử dụng cơ hạ môi), rút cuộc hạ hàm xuống. Còn bộc lộ sự kinh tởm thì sao? Thường, bạn sẽ dùng đơn vị hoạt động số 9 để tả nét xúc cảm này; khi đó, bạn sẽ nhăn mũi lại (dùng cơ nâng mũi và nâng môi trên). Nhưng thỉnh thoảng bạn cũng có thể trình diễn nét mặt đó bằng đơn vị hoạt động số 10, có thể phối hợp thêm đơn vị hoạt động số 15, 16 hoặc số 17.

chung cuộc, Ekman và Friesen cũng đã tụ hội được quờ quạng những kết hợp trên cũng như các quy luật đọc và diễn giải chúng thành một Hệ thống mã hóa các hoạt động của nét mặt, hay còn gọi là hệ thống FACS (Facial Action Coding System) và ghi chép lại trong một tài liệu dày 500 trang. Đây là một tác phẩm khôn xiết đáng chú ý, với đầy đủ những chi tiết như các chuyển động có thể của môi (bạnh dài, thu nhỏ, thu hẹp, mở mang, làm mỏng, trề, mím chặt, và căng); bốn sự đổi thay khác nhau của vùng da nằm giữa mắt và má (phồng, húp, mọng và nhăn); những đặc điểm phân biệt đốn giữa các nếp nhăn ở phần phía dưới hốc mắt và các nếp nhắn ở vùng mũi – môi.

Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng sử dụng hệ thống do Ekman xây dựng nên để nghiên cứu tuốt mọi vấn đề từ bệnh thần kinh phân liệt cho tới bệnh tim; ngay cả các nhà làm phim hoạt hình trên máy tính cũng phải áp dụng hệ thống này vào trong quá trình làm phim của mình, thí dụ như hai bộ phim Toy story của hãng Pixar và Shrek của hãng Dream Works. thường nhật người ta phải mất hàng tuần lễ mới có thể vận dụng thành thục được hết thảy hệ thống FACS này, và theo các nghiên cứu trên thế giới chỉ có 500 người được cấp giấy chứng thực đã áp dụng thành công phương pháp này. Và những ai đã ứng dụng thành công luôn hiểu rõ được những thông điệp được trao gửi khi người ta nhìn vào mắt nhau.

Ekman nhớ lại lần trước nhất ông gặp Bill Clinton, trong các cuộc bầu cử ứng cử viên tổng thống của Đảng dân chủ được tổ chức năm 1992. “Tôi theo dõi nét mặt của anh ta và nói với vợ tôi “Đây là một ‘Peck’s Bad Boy’. EKman nói tiếp “Đây là người muốn mình bị bắt quả tang khi đang cho tay vào túi bánh quy nhưng dù thế nào đi chăng nữa anh ta vẫn khiến chúng ta yêu quý vì chính hành động đó. Kiểu nét mặt này là một trong những kiểu anh ta thích nhất. Đó là nét mặt: con đã ăn vụng bánh quy, nhưng vẫn yêu con mẹ nhé, vì con chỉ nghịch ngợm thôi. Và nó được hình thành nhờ sự phối hợp của đơn vị hoạt động số 12, 15, 17 và 24 cùng với đôi mắt đảo quanh.” Ekman dừng lại một chút rồi thực hành lại chuỗi đơn vị hoạt động đó trên khuôn mặt ông. Ekman co phần chính của xương gò má lại, đó là đơn vị hoạt động số 12, với điệu cười nhỡ ra, sau đó ông kéo mạnh khóe môi xuống bằng cơ tam giác, động tác này là đơn vị hoạt động số 15. đấu, Ekman cong cằm lại, đây là đơn vị hoạt động số 17. Trong đơn vị hoạt động số 24 cằm được nâng lên, môi hơi mím lại, chung cục là đảo mắt.

BỘ MẶT BỊ phanh phui

Ekman cho rằng nét mặt là một nguồn thông báo tình cảm vô cùng phong phú. Trên thực tiễn, thậm chí ông còn quyết đoán hơn về một điểm mấu chốt để nắm được phương thức hoạt động của quá trình đọc nghĩ suy của người khác, và ông nhấn mạnh rằng thông báo mô tả trên nét mặt của chúng ta không chỉ là một tín hiệu cho thấy những gì diễn ra trong tâm khảm chúng ta. Ở một góc cạnh nào đó, nó chính là những gì thực thụ diễn ra trong tâm não của chúng ta.

Khởi đầu của nghĩ suy này bắt đầu khi Ekman và Friesen lần trước nhất ngồi đối diện nhau, thực hành nét mặt giận dữ và khổ cực. Đó là những tuần lễ trước khi một trong hai người chúng tôi rút cuộc cũng phải dấn mình cảm thấy khủng khiếp sau một buổi tạo ra một trong những khuôn mặt đó suốt cả ngày,” Friesen nói. “Sau đó người kia đã nhận ra rằng mình cũng cảm thấy tệ bạc, do đó chúng tôi đã bắt đầu lần mò ra được.” Tiếp theo, họ đã quay trở lại và rà soát lại bản thân trong thời gian xuất hiện những cử động đặc biệt của nét mặt. “Bạn thực hiện đơn vị hoạt động số 1: nâng chân mày phía trong lên, số 6: nâng cằm lên, và số 15: thu góc của môi lại”, Ekman nói rồi thực hành cả 3.” Những gì chúng tôi khám phá ra chính là những biểu hiện riêng biệt trên khuôn mặt là đủ để tạo ra những thay đổi đáng lưu ý trong hệ thần kinh tự động. Khi nó diễn ra lần trước tiên, chúng tôi đã đích thực sững sờ. Chúng tôi đã không lường trước được bít tất những điều này. Và khi nó xảy ra thì cả hai chúng tôi đều cảm thấy thật khủng khiếp. Những gì mình đã tạo ra thật đớn đau, thật buồn khổ. Khi tôi kéo chân mày xuống – đơn vị hoạt động số 4, nâng mí mắt trên lên – số 5, thu hẹp mí mắt – số 7, mím môi lại – số 24, tức thị tôi đang tức giận. Nhịp tim của tôi có thể tăng them 10 đến 12 nhịp. bàn tay tôi nóng lên. Khi tôi làm điều đó, tôi không thể tách rời ra được các hệ thống đã phân loại. Nó thật là khó chịu, cực kì khó chịu!”

Ekman, Friesen và Robert Levenson đã quyết định thế chứng dẫn bằng tài liệu tác động này. Họ tụ hội một nhóm các tự nguyện viên và gắn lên người họ các thiết bị để giám sát việc đo nhịp tim và nhiệt độ cơ thể – những dấu hiệu sinh lý của rất nhiều xúc cảm như: tức giận, buồn bã và sợ hãi. Một nửa số tự nguyện viên đã được nhắc về việc gắng nhớ và hồi tưởng lại một lần bị căng thẳng đặc biệt nhất họ đã sang. Nửa còn lại chỉ đơn giản được chỉ cho cách làm thế nào để tạo ra trên khuôn mặt họ những diễn đạt hợp với các cảm giác làm găng, như tức giận, buồn bã và sợ hãi. Nhóm thứ 2, là những người phải trình diễn, bộc lộ chính những phản ứng sinh lý, làm tăng nhịp tim hay nhiệt độ cơ thể giống như của nhóm thứ nhất.

Vài năm sau đó, một nhóm các nhà tâm lý học người Đức đã tiến hành một nghiên cứu hao hao. Họ có một nhóm các hình dáng ảnh hoạt hình, khi thì ngậm một cái bút giữa 2 môi – một hành động làm cho cả hai cơ cười chính đều chẳng thể co lại được, đó là cơ xương hàm và cơ má – hoặc có khi lại ngậm chặt cái bút giữa hai hàm răng, việc đó tạo ra hiệu quả trái lại và buộc họ phải cười. Người ngậm cái bút giữa 2 hàm răng sẽ thấy các bộ phim hoạt hình buồn cười hơn. Bài nghiên cứu chỉ ra: xúc cảm có thể bắt đầu trên khuôn mặt. Khuôn mặt không phải là một tấm bảng thứ hai cho các cảm giác bên trong của chúng ta, mà nó là một người đồng hành song song với sự biến đổi xúc cảm.

Điểm cốt lõi ở đây là những ẩn ý cho hành động đọc nghĩ suy của người khác. tỉ dụ như, vào lúc mới bắt đầu sự nghiệp, Paul Ekman quay phim 40 bệnh nhân tâm thần, bao gồm một phụ nữ tên là Mary – một bà nội trợ 42 tuổi. Bà ta đã quyết định tự tận 3 lần, và bà vẫn sống sót sau lần quyết định cuối cùng – uống thuốc quá liều – chỉ vì ai đó đã thấy bà đúng lúc và đưa đi cấp cứu kịp thời. Những đứa con đã trưởng thành của bà đã bỏ nhà ra đi, và chồng bà thì chẳng đoái hoài gì tới bà, khiến bà rất muộn phiền. Khi lần trước nhất đến bệnh viện, bà không thể làm được việc gì ngoài ngồi đó và khóc, nhưng bà ta chừng như có phản ứng tốt với các liệu pháp tâm lý. Sau 3 tuần, bà ta nói với bác sỹ rằng bà đã cảm thấy khá hơn rất nhiều và muốn đi thăm gia đình vào cuối tuần. Bác sỹ đã đồng ý, nhưng ngay trước khi Mary chuẩn bị rời bệnh viện, bà mới thúc rằng lý do đích thực mà bà muốn đi nghỉ cuối tuần là để trầm mình một lần nữa. Vài năm sau, khi một nhóm các nhà tâm lý học trẻ tuổi hỏi Ekman làm thế nào có thể biết được khi bệnh nhân muốn tự tận đang nói láo, ông lại nhớ lại đoạn băng về Mary và quyết định xem lại, nhóng nó sẽ cho câu trả lời. Nếu nét mặt thực sự là một chứng dẫn đáng tin cậy của cảm xúc, ông suy luận, thì sao lại không coi xét lại cả cuốn băng để thấy rằng Mary đã nói dối khi bà nói bà đã cảm thấy khá hơn? Ekman và Friesen bắt đầu phân tách cả cuốn băng để tìm ra mai mối nào đó. Họ xem đi xem lại cuốn băng hàng giờ đồng hồ, thẩm tra từng chuyển động chậm nhất của mỗi cử chỉ, điệu bộ, biểu đạt. rốt cuộc, họ đã thấy được những gì mà họ đang tầm: Khi bác sỹ của Mary hỏi về kế hoạch sắp tới của bà, có một tia thất vọng hoàn toàn lướt qua bộ mặt bà nhanh đến mức hầu như chẳng thể nhận ra được.

Ekman gọi loại tả thoáng qua trên khuân mặt đó là sự miêu tả tinh tướng, một loại biểu hiện rất đặc biệt của gương mặt. Rất nhiều nét mặt có thể diễn đạt ra một cách tự nhiên. Nếu tôi vắt nhìn thật nghiêm nghị khi tôi quở mắng bạn gay gắt, tôi sẽ không gặp khó khăn gì khi làm việc đó, và bạn cũng chẳng khó khăn gì để nhận ra cái trừng mắt của tôi. Nhưng khuân mặt của chúng ta cũng bị chi phối bởi một phần khác biệt lập, một hệ thống không chủ động đã tạo ra các biểu thị mà chúng ta không thể nào biết để kiểm soát được.



Bất cứ khi nào chúng ta thực hiện một trạng thái cảm xúc cơ bản nào, xúc cảm đó lại tự động diễn tả ra bằng các cơ trên mặt. Phản ứng này có thể lưu lại trên khuôn mặt chỉ trong một phần nhỏ của giây và chỉ có thể bị phát hiện bằng các cảm ứng điện gắn trên mặt. Nhưng thực ra nó vẫn hiện diện ở đó. Tomkins đã từng bắt đầu một bài thuyết trình bằng câu nói “Khuôn mặt cũng giống như cái chân giữa của người đàn ông!” Ý ông là xét trên phạm vi rộng, khuôn mặt cũng có các nghĩ suy của riêng nó. Điều này không có tức là chúng ta không điều khiển được nét mặt của mình. Chúng ta có thể sử dụng hệ thống cơ để chủ động kìm nén các phản ứng không cố ý đó. Nhưng thường thì một đôi phần nhỏ của nét cảm xúc bị kềm chế đó – như cảm giác tôi đích thực rất buồn cho dù tôi đã phủ nhận điều đó – vẫn lộ ra. Đây chính là những gì đã xảy ra với Mary. Hệ thống diễn tả chủ động của chúng ta là cách chúng ta cố tình thể hiện cảm xúc của mình, nhưng dưới nhiều giác độ, hệ thống diễn tả không chủ động của ta thậm chí còn có ý nghĩa quan trọng hơn: chúng là cách mà nhờ quá trình tiến hóa, chúng ta được trang bị thêm, để trình bày những cảm giác trung thực nhất của mình.

“Chắc hẳn đã có những lúc ai đó bình luận về nét mặt của bạn nhưng bạn lại không hề biết rằng mình đang tạo ra nét mặt đó,” Ekman nói.

Chúng ta có thể đọc ắt các ý nghĩ một cách dễ dàng và vô thức vì các mai mối chúng ta cần để hiểu cảm giác của ai đó hoặc của một cảnh huống từng lớp nào đó đều xuất hiện ở trên khuân mặt của họ, ngay trước mắt chúng ta.

Khi ai đó nói với ta “Anh yêu em”, tức khắc chúng ta nhìn thẳng vào họ bởi bằng cách nhìn vào mặt, chúng ta có thể nắm được – hoặc chí ít là cũng biết được xác thực hơn – tình cảm đó có chân thật hay không. Liệu chúng ta có cảm thấy bất kì sự âu yếm, ham nào trên khuôn mặt người đó hay không? Hay chúng ta chỉ bắt được một biểu đạt rất nhỏ, thoáng qua của sự buồn bã, đau khổ chợt lộ ra trên nét mặt người đó?

Chia sẻ tại: http://quynhontimes.com/kha-nang-doc-suy-nghi-va-bo-mat-bi-boc-tran/